Cuộc đổ bộ Chiến_dịch_Guadalcanal

Con đường đi của các lực lượng đổ bộ Đồng Minh lên Guadalcanal và Tulagi, ngày 7 tháng 8 năm 1942.

Thời tiết xấu đã giúp cho lực lượng viễn chinh Đồng Minh tiến gần đến Guadalcanal mà không bị quân Nhật trông thấy vào buổi sáng ngày 7 tháng 8 năm 1942.[22] Lực lượng đổ bộ được chia thành hai nhóm, một tấn công lên Guadalcanal, và nhóm kia vào Tulagi, Florida và các đảo lân cận.[23] Các tàu chiến Đồng Minh tiến hành nả pháo các bãi đổ bộ trong khi máy bay từ các tàu sân bay ném bom các vị trí của quân Nhật trên các đảo mục tiêu, và tiêu diệt 15 thủy phi cơ Nhật tại căn cứ của chúng gần Tulagi.[24] Tulagi và hai đảo nhỏ lân cận GavutuTanambogo bị một lực lượng 3.000 Thủy quân Lục chiến Mỹ tấn công.[25] Lực lượng hải quân Nhật gồm 886 người trú đóng tại căn cứ hải quân và căn cứ thủy phi cơ đã kháng cự kịch liệt cuộc tấn công của Mỹ.[26] Với đôi chút khó khăn, Thủy quân Lục chiến Mỹ chiếm được cả ba hòn đảo; Tulagi vào ngày 8 tháng 8, còn Gavutu và Tanambogo vào ngày 9 tháng 8.[27] Quân Nhật phòng thủ trên các đảo bị tiêu diệt hầu như cho đến người cuối cùng, trong khi Thủy quân Lục chiến Mỹ chịu tổn thất 122 người tử trận.[28]

Tương phản với Tulagi, Gavutu, và Tanambogo, cuộc đổ bộ lên Guadalcanal gặp phải rất ít sự kháng cự. Lúc 09 giờ 10 phút ngày 7 tháng 8, tướng Vandegrift cùng 11.000 Thủy quân Lục chiến đổ bộ lên Guadalcanal tại địa điểm giữa Koli Point và Lunga Point. Tiến quân về phía Lunga Point, họ không gặp phải bất kỳ sự kháng cự nào ngoại trừ những cơn mưa rào nhiệt đới "lộn xộn", và họ phải dừng lại nghỉ đêm cách sân bay tại Lunga Point không đầy 900 m (1.000 yard). Ngày hôm sau, chỉ gặp sự chống cự yếu ớt, Thủy quân Lục chiến tiến đến sông Lunga và hoàn toàn kiểm soát sân bay lúc 16 giờ 00 phút ngày 8 tháng 8. Các đơn vị xây dựng hải quân và đơn vị chiến đấu Nhật Bản, dưới quyền chỉ huy của Đại úy Kanae Monzen, hoảng loạn do các loạt hải pháo và các cuộc ném bom, đã bỏ khu vực sân bay tháo chạy về phía Tây cách khoảng 5 km (3 dặm) cạnh sông Matanikau và khu vực Point Cruz, bỏ lại phía sau lương thực, tiếp liệu, xe cộ và máy móc xây dựng còn nguyên vẹn cùng 13 người chết.[29]

Thủy quân Lục chiến Mỹ đổ bộ lên Guadalcanal, ngày 7 tháng 8 năm 1942.

Trong khi cuộc đổ bộ đang diễn ra vào các ngày 78 tháng 8, máy bay Hải quân Nhật đặt căn cứ tại Rabaul dưới sự chỉ huy của Sadayoshi Yamada đã nhiều lần tấn công lực lượng đổ bộ Đồng Minh, làm cháy chiếc tàu vận tải Mỹ George F. Elliot (nó chìm hai ngày sau đó) và làm hỏng nặng chiếc tàu khu trục Jarvis.[30] Trong hai ngày giao chiến, phía Nhật mất 36 máy bay, trong khi các tàu sân bay Mỹ thiệt hại 19 chiếc do cả chiến đấu lẫn tai nạn, trong đó có 14 máy bay tiêm kích.[31]

Sau các trận không chiến này, Fletcher tỏ ý e ngại về sự thiệt hại của lực lượng tiêm kích trên các tàu sân bay của ông, về nguy cơ các tàu sân bay tiếp tục bị không kích, và về tình trạng nhiên liệu của các con tàu. Ông quyết định rút lui lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay của mình khỏi khu vực quần đảo Solomon vào chiều tối ngày 8 tháng 8.[32] Do không có được sự yểm trợ trên không của các tàu sân bay, Turner cũng cho rút lui các tàu bè của mình khỏi khu vực Guadalcanal, cho dù chưa đến nữa các trang thiết bị hạng nặng và tiếp liệu cần thiết cho lực lượng trên bờ được bốc dỡ.[33] Dù sao, Turner cũng dự định cho bốc dỡ hàng tiếp liệu càng nhiều càng tốt cho Guadalcanal và Tulagi trong suốt đêm 8 tháng 8, và chỉ cho khởi hành các con tàu vận tải của mình vào sáng sớm ngày 9 tháng 8.[34]

Đêm hôm đó, trong khi các con tàu vận tải đang được bốc dỡ, hai nhóm tàu chiến Đồng Minh hộ tống dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Hải quân Hoàng gia Victor Crutchley hoàn toàn bị bất ngờ và bị đánh bại bởi một lực lượng hạm đội Nhật bao gồm bảy tàu tuần dương và một tàu khu trục của Hạm đội 8 Nhật Bản, đặt căn cứ tại Rabaul và Kavieng dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc Gunichi Mikawa. Một tàu tuần dương Australia và ba tàu tuần dương Mỹ bị đánh chìm, và một tàu tuần dương Mỹ cùng hai tàu khu trục bị hư hại trong Trận chiến đảo Savo. Lực lượng Nhật Bản chỉ bị hư hại một tàu tuần dương. Tuy nhiên, Mikawa, lo lắng về nguy cơ bị các tàu sân bay Mỹ không kích vào lúc trời sáng nếu chần chừ ở lại, và không biết rằng Fletcher đã rút lui cùng các tàu sân bay Mỹ, đã ra lệnh cho hạm đội rút lui ngay về Rabaul, bỏ qua cơ hội tấn công các con tàu vận tải mà giờ đây không được bảo vệ. Sau đó, Turner cho rút tất cả các lực lượng hải quân Đồng Minh tại khu vực vào chiều tối ngày 9 tháng 8, để lại lực lượng Thủy quân Lục chiến trên bờ mà không có đủ vũ khí hạng nặng và tiếp liệu. Tuy nhiên, quyết định của Mikawa không tấn công các con tàu vận tải Đồng Minh khi ông có cơ hội đã tỏ ra là một sai lầm chiến lược nghiêm trọng.[35]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_dịch_Guadalcanal http://ajrp.awm.gov.au/ajrp/ajrp2.nsf/088031725e45... http://ajrp.awm.gov.au/ajrp/ajrp2.nsf/Web-DocSecon... //www.amazon.com/dp/B0007DORUE http://www.users.bigpond.com/pacificwar/GermanyFir... http://www.combinedfleet.com/kaigun.htm http://www.franklinfavorite.com/articles/stories/2... http://books.google.com/books?id=xtaTS-POl-UC&prin... http://www.historyanimated.com/Guadalcanal.html http://www.nettally.com/~jrube/index2.html http://www.pacificwrecks.com/people/veterans/clark...